Việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng ‘tái xuất’ cùng với việc Bộ Chính trị của ĐCS nhóm họp về ứng phó đại dịch Cúm Vũ Hán được cho là một việc làm ‘muộn còn hơn không’ và phần nào giải tỏa được thắc mắc, băn khoăn của công chúng và dư luận, theo một nhà phân tích chính trị từ Hà Nội.
Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng, từ Viện các Vấn đề Phát triển, cựu Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, nhận định rằng đại dịch Cúm Vũ Hán cũng có thể khiến Việt Nam tái tư duy về nhận thức luận trong quan hệ với Trung Quốc.
Trước hết nói về việc tái xuất của ông Nguyễn Phú Trọng, Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng cho rằng, cuộc họp Bộ Chính trị được trông đợi cuối cùng đã diễn ra hôm 20/3, dù muộn còn hơn không.
Việc suốt hơn hai tháng qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không xuất hiện, không có một tuyên bố nào về chống dịch bệnh được nhiều giới ở Việt Nam, kể cả thường dân lẫn xã hội dân sự cho là hiện tượng không bình thường. Tuyên bố của ông Trọng mới đây, phần nào giải toả được bức xúc này.
Thông thường, sự nhậy cảm, thái độ và những quyết sách kịp thời của các nhà lãnh đạo đối với những vấn đề lớn và phức tạp của quốc gia như đại dịch Cúm Vũ Hán là cực kỳ hệ trọng.
Nó sẽ xác lập được niềm tin của quần chúng vào vai trò lãnh đạo của đảng và nhà nước, điều hết sức cần thiết để đưa đất nước vượt qua những tình thế phức tạp và hiểm nghèo như hiện nay. Riêng đối với lời kêu gọi đóng góp nguồn lực thì tuyên bố của ông Trọng về chuẩn bị khả năng xấu nhất để có phương án tốt nhất chống dịch, cũng như phát biểu trước đó của Thủ tướng Phúc tại lễ phát động toàn dân chống dịch khiến tôi nhớ lại ‘Tuần lễ vàng’ ngày xưa. Bối cảnh lịch sử có thể khác nhau, nhưng truyền thống tương thân tương ái của người Việt thì thời nào cũng có.
Tuy nhiên, việc huy động dân đóng góp tài chính và hiện vật vào lúc này là không dễ dàng. Bởi thứ nhất, người dân lẫn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang bươn chải hết sức khó khăn do đại dịch.
Không ai dám đòi hỏi chính quyền phải bỏ ra hàng trăm tỷ, ngàn tỷ usd như mấy nước kia, nhưng giờ là lúc đang căng thẳng hơn cả chiến tranh, mà lòng người thì lại bất an, không như thời ‘Tuần lễ vàng’ đâu.
Thứ hai, quy luật chiến tranh và quy luật thời bình vốn khác nhau. Người dân nay đã/đang bị chấn động bởi nhiều biến cố thời hậu chiến, vết thương mới chồng lên vết sẹo cũ. Nhất là phong trào dân oan trong mấy năm gần đây trải dài từ thành phố đến làng quê là thực tế không thể xem thường, sẽ tác động không nhỏ tới sự hưởng ứng của người dân.
Thứ ba, hiện nay, niềm tin của dân vào bộ máy chính quyền các cấp, vào các cán bộ của đảng và nhà nước có nhiều biểu hiện giảm sút do nạn tham nhũng và lạm dụng quyền lực của số không ít cán bộ đảng viên trong hệ thống công quyền gây ra.
Thứ tư, vận động dân quyên góp, phải được tiến hành song song với việc khắc phục hậu quả lâu dài về mọi mặt đối với người dân khi kinh tế quốc nội và quốc tế có thể đi vào chu kỳ khủng hoảng sâu. Lòng dân sẽ là thước đo cuối cùng về kết quả của mọi cuộc vận động.
TS. Đinh Hoàng Thắng cũng có ý kiến cho rằng dịch Cúm Vũ Hán là cơ hội để Việt Nam có thể ‘thoát Trung’ và ‘giãn Trung’ và bình luận liệu việc này có khả thi không?
Vấn đề ‘giãn Trung’ hay ‘thoát Trung’ không phải là đòi hỏi mới. Nó là câu chuyện bức bách đã xuất hiện từ lâu trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội ở Việt Nam thời hội nhập. Nhưng nó cũng không chỉ là câu chuyện bức bách của riêng một mình Việt Nam.
Hãy nhìn Italy “lún” quá sâu vào “con đường tơ lụa” của Bắc Kinh và đã “dính chưởng” khủng khiếp như thế nào! Đó là bài học cho mọi quốc gia.
Italy từng cho phép 100.000 công nhân Trung Quốc từ Vũ Hán và Ôn Châu đến Italy làm việc trong các nhà máy, những người này di chuyển giữa Vũ Hán và Bắc Italy. Phải chăng chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên khi miền Bắc Italy hiện là điểm nóng của Âu châu về bùng phát dịch?
Tuy nhiên, nan đề ‘thoát Trung’ đáng tiếc cho đến nay vẫn chưa có đáp án khả thi, đối với cả Việt Nam lẫn thế giới. Nó lưỡng nan ở tầm vĩ mô, cả quốc nội lẫn quốc tế, trên cả lĩnh vực kinh tế lẫn địa-chính trị, nó bất an như chính câu hỏi “to be or not to be” – nghĩa là “tồn tại hay không tồn tại”
Nó phản ánh trạng thái bế tắc, dằn vặt trên nhiều phương diện trong toàn các xã hội.
Bản thân một số nước châu Âu cũng bị Trung Quốc ràng buộc bằng các mối lợi kinh tế. Riêng Việt Nam, vì nhiều lý do, vấn đề này càng cần phải được đặt ra như một ưu tiên cao hơn các nước khác.
Dịch Cúm Vũ Hán mở ra cơ hội mới và rất có thể là cơ hội cuối cùng cho cả nước, từ người dân đến lãnh đạo Việt Nam bắt tay vào những hành động cụ thể.
Những kết quả bước đầu ở Việt Nam trong việc cô lập, cách ly hay tuyên bố chế tạo được những “bộ kít” mới trong xét nghiệm là đáng ghi nhận.
Trong mấy năm gần đây, ngành Y tế Việt Nam đã có sự quan tâm đầu tư cho lĩnh vực y tế cộng đồng, dịch tễ học và được sự giúp sức đáng kể của Hoa Kỳ trong việc tổ chức hệ thống các Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC).
Các Trung tâm này cùng đội ngũ nhân viên y tế được đào tạo đã và đang phát huy tác dụng trong việc phòng chống dịch Cúm Vũ Hán thời gian qua.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, đó là thời kỳ Việt Nam dồn lực cứu chữa chỉ cho 16 người nhiễm bệnh. Nếu mai đây, dịch Cúm Vũ Hán lan rộng ra cả nước với hàng trăm, hàng ngàn phơi nhiễm thì câu chuyện không giống như xử lý 16 người nữa.
Vì vậy, nếu ai đó lạc quan thái quá lúc này để các bạn cho là “ngạo nghễ” là điều không đáng có. Kinh Thánh dạy: “Kiêu ngạo đi trước sự hủy diệt… Khôn ngoan đến với người khiêm nhường”.
Ngay cả ý kiến của những người có trách nhiệm ở các nước khác nhau, cũng thấy có những mâu thuẫn. Có những đánh giá khá tự tin, khá lạc quan, trong khi lại có các nhận xét cho rằng, không biết chúng ta có vượt qua được nạn dịch hay không. Riêng điều này đủ nói lên tính phức tạp của đại dịch này.
Cuộc chiến đấu đối phó với dịch Cúm Vũ Hán trên toàn cầu và khu vực vẫn đang diễn ra và chưa chấm dứt, tuy nhiên có điều gì mà các quốc gia và kể cả người dân ngay lúc này cần tái tư duy về mặt nhận thức luận (chính trị, xã hội, nhân văn, tâm lý, địa chính trị… ). Theo nhiều dự báo, thế giới sau dịch Cúm Vũ Hán sẽ là một thế giới khác. Cuộc sống sau đại dịch chắc chắn sẽ thay đổi, khó quay lại như trước đây. TS. Đinh Hoàng Thắng nhận định.
“Trời sập” vốn là một thành ngữ dân gian, nhưng thời dịch Cúm Vũ Hán có thể bổ túc thêm vào thành ngữ này nhiều nội hàm mới. Bạn phải chấp nhận một số quy định mà trước đây, bạn nghĩ chỉ khi “Trời sập” mới có thể xẩy ra.
Trước đây, bạn khó hình dung, triển khai các công cụ giám sát hàng loạt sẽ trở thành điều bình thường ở mọi quốc gia? Hơn thế nữa, nó còn là một bước chuyển từ giám sát “trên bề mặt da” sang giám sát “dưới bề mặt da” (Xem ta có bị sốt hay không). Nếu các chính phủ bắt đầu thu thập dữ liệu sinh trắc học trên diện rộng, “người của nhà nước” sẽ hiểu chúng ta hơn chính chúng ta hiểu bản thân mình.
Các lý thuyết gia rồi sẽ ra các đầu sách liên quan đến quá trình tái tư duy về mặt nhận thức luận. Từ “Virus Vũ Hán” đến “Covid-19” có lẽ là khủng hoảng lớn nhất đối với thế hệ chúng ta.
Những quyết định mà người dân và các chính phủ đưa ra trong thời gian tới sẽ định hình diện mạo thế giới tương lai. Không chỉ hệ thống y tế bị ảnh hưởng lớn mà còn cả kinh tế và chính trị, tôn giáo và văn hóa…
Trong khủng hoảng, chúng ta đối mặt với hai lựa chọn đặc biệt quan trọng:
- Thứ nhất là chọn lựa giữa sự giám sát độc tài hay trao quyền cho công dân.
- Thứ hai là chọn lựa giữa sự cô lập mang tính dân tộc chủ nghĩa hay sự đoàn kết toàn cầu.
- Thay vì xây dựng một chế độ giám sát công dân, hiện vẫn chưa quá muộn để gây dựng niềm tin của người dân vào khoa học, chính quyền và báo chí.
Hẳn nhiên, nên tận dụng sức mạnh của công nghệ, nhưng công nghệ phải nhằm mục đích gia tăng sức mạnh cho người dân. Dịch Cúm Vũ Hán đặt ra những vấn đề vượt khỏi các chuẩn mức cũ trên mọi địa hạt, từ chính trị, kinh tế đến đạo đức, tôn giáo.
Những nhận thức mới và quan trọng nhất đối với Việt Nam có thể tóm tắt với 3 điểm sau:
- i) Đại hội Đảng 13 tới đây sẽ là cột mốc lịch sử đáng nhớ nếu vượt thoát được cách chuẩn bị và tiến hành như xưa nay;
- ii) Chính phủ sẽ thiết lập phương án toàn diện cho giai đoạn “hậu Covid-19” ngay trong thời gian tập trung chống dịch;
- iii) Cả nước bắt tay chuẩn bị đối phó với một môi trường quốc gia và quốc tế thay đổi.
Một khi môi trường sống thay đổi thì các hệ thống nhỏ và hệ thống lớn trong môi trường ấy chắc chắn sẽ không thể vận hành theo kiểu cũ.
Từ quan niệm truyền thống về địa-chính trị đến thể chế, từ tâm lý xã hội đến hành vi của mỗi cá thể…
Tất cả, nếu muốn tồn tại, chứ chưa nói đến phát triển, đều phải thay đổi tận gốc rễ. Đảng Cộng sản Việt Nam với thể chế độc tài liệu có chịu thay đổi để người dân thoát hiểm nghèo hay không? vẫn là câu hỏi được đặt ra với bộ máy lạc hậu và già nua tại Ba Đình.
Thu Thủy từ TpHCM – Thoibao.de (tổng hợp)