Đã 45 năm trôi qua sau ngày 30/4/1975, đứng trước những biến động lớn trong trật tự thế giới và dự kiến nhiều đổi thay trong nhận thức của nhân loại sau cơn đại dịch, giới nghiên cứu tiếp tục thảo luận về cuộc chiến tranh tại Việt Nam, vấn đề công lý công bằng cho lịch sử dân tộc và triển vọng đa nguyên đa đảng cho tương lai của đất nước cũng được đưa ra bình luận.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng khởi đầu đưa ra ý kiến: “Đây là sự đã rồi, đặt ra chỉ tiếp tục gây tranh cãi, không thực tiễn và không có lợi cho dân tộc. Nhưng cũng có nhiều người nghĩ khác và họ có quyền nghĩ như vậy.
Trước đây cũng có người đề nghị triệu tập lại Hội nghị Paris để buộc chính quyền Hà Nội phải thi hành những điều khoản mà họ đã cam kết. Theo hiểu biết giới hạn của tôi, việc áp đặt với bên chiến bại thì có, áp đặt với bên thắng cuộc thì chưa có trong lịch sử.”
Luật sư Lê Công Định: Trong cuộc nội chiến từ 1955 đến 1975, Bắc Việt là kẻ xâm lược và gây nên cuộc chiến nồi da nấu thịt đẫm máu, dưới chiêu bài “chống đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước“.
Chiêu bài đó có thể lừa được nhiều người tâm trí thấp, nhưng không thể lừa tất cả.
Cuộc xâm lược đó không những vi phạm Hiệp định Paris 1973, mà còn ngược thời gian về trước vi phạm cả Hiệp định Geneva 1954, tức là vi phạm luật pháp quốc tế và cam kết quốc tế.
Điều đó miễn bàn. Mặt khác, qua đó chúng ta có thể thấy rõ rằng người cộng sản chỉ giả vờ hoà giải bằng các thoả thuận và hiệp định, nhưng ngay từ đầu chưa bao giờ họ có ý định đàm phán hoà bình thật sự, mà muốn dùng bản hiệp định để chuẩn bị lực lượng và loại bỏ bớt đối thủ mạnh trên chiến trường, từ đó dùng quân sự để xâm chiếm.
Giáo sư Vũ Tường: Hành động chiến tranh là bất hợp pháp vào lúc đó — đó chính là lý do tại sao miền Bắc phải núp bóng dưới danh nghĩa Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam là một tổ chức mang danh độc lập nhưng do Hà nội kiểm soát.
Do sự sùng bái chủ nghĩa dân tộc trên thế giới vào thời đó, do sự vận dụng tinh thần dân tộc trong một chừng mực nào đó của Đảng Cộng sản, nên việc sử dụng bạo lực bất hợp pháp trên có phần nào tính chính danh đối với nhiều người. Dĩ nhiên câu nói từ xưa “được làm vua, thua làm giặc” cũng áp dụng trong trường hợp này, sau năm 1975.
“Để có thể tái lập công lý, cần có một chính quyền khác không hẳn là chống cộng sản.” Giáo sư Vũ Tường đưa ra quan điểm.
Chính quyền mới có thể sửa chữa những bất công trong quá khứ bằng cách bãi bỏ hoàn toàn những chính sách phân biệt đối xử cũng như đền bồi danh dự (và có thể một phần vật chất) không chỉ cho những nạn nhân của chính sách trả thù sau năm 1975 đối với miền Nam mà còn cho hàng triệu nạn nhân của một thời “chuyên chính vô sản” và “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội“.
Công lý không đồng nghĩa với trả thù những người cộng sản hôm nay vì chính sách sai lầm của những người cộng sản đi trước, và chính quyền cộng sản hiện nay cũng có thể tái lập công lý mặc dù việc này khó xảy ra vì giới lãnh đạo đặt quyền lợi phe đảng của họ trên quyền lợi của dân tộc.
Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng: Ai đọc lịch sử văn minh Phương Đông thì sẽ hiểu toàn vẹn lãnh thổ là giá trị cốt lõi, căn bản và thiêng liêng của tất cả các dân tộc.
Tôi không quan trọng ai là “bên thắng cuộc“, một khi đã xảy ra nội chiến, xảy ra ” chiến tranh ủy nhiệm“, huynh đệ tương tàn, gà cùng một mẹ đá nhau, thậm chí giết nhau thì cả dân tộc cùng thua, cùng đau thương mất mát như nhau, không có bên nào thắng cả.
Thực tế lịch sử đã chỉ ra Miền Nam có Mặt trận dân tộc giải phóng,
Miền Bắc tuy có giúp đỡ chi viện nhưng về cơ bản những phong trào đấu tranh vẫn do người miền Nam làm chủ chốt, không ai thay thế được.
Những dáng đứng Bến Tre, những chị Út Tịch, Nguyễn Văn Trỗi, Võ Thị Thắng, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình vẫn là những minh chứng cho một bộ phận khát vọng thống nhất của chính người dân Miền Nam.
Điều làm nên thắng lợi chung cuộc của cả dân tộc là sự bền bỉ trong ý chí và quyết tâm, là tính chính nghĩa trong sự lựa chọn và bảo vệ giá trị toàn vẹn lãnh thổ cốt lõi của cả dân tộc, là thắng lợi trên mặt trận đấu tranh ngoại giao khiến Mỹ cuối cùng phải buông tay, không can thiệp, cắt viện trợ, đưa hệ thống chính quyền do Mỹ hỗ trợ vào nguy cơ sụp đổ.
Quan trọng hơn nữa, trong con mắt của thế hệ sau như chúng tôi, thắng lợi đó là nhờ sự thức tỉnh lương tâm lương tri của các lãnh đạo người Việt, đặc biệt là các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Hương, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu…. đã biết đặt toàn vẹn lãnh thổ, mạng sống của đồng loại, quyền lợi của dân tộc lên trên danh dự cá nhân, danh dự quân nhân, chuyển giao chính quyền một cách hòa bình cho Mặt trận lâm thời giải phòng Miền Nam Việt Nam, sau đó là cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau một cuộc hiệp thương chính trị.
Tôi cho rằng đây là một cuộc chuyển giao hòa bình và hoàn toàn hợp pháp, là hồng phúc lớn của dân tộc Việt Nam. Những đứa con của cùng một mẹ Việt Nam cuối cùng cũng đã bỏ súng xuống, giảng hòa với nhau, đây là một kết cục tốt đẹp và hoàn toàn phù hợp với công pháp quốc tế.
BBC nêu ra câu hỏi : Có những vấn đề gì về công lý, công bằng lịch sử có thể cần đặt ra?
Luật sư Lê Công Định: Công lý có một quy luật bất biến là bản thân nó phải được thực thi.
Không ai gây tội ác mà không bị trả giá, trừ phi kẻ thủ ác thực sự hồi tâm và hoàn lương.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Có nhiều vấn đề cần phải xét, và cũng có nhiều phương thức, nhưng phải xét với tinh thần bao dung và tôn trọng sự thật. Ủy ban Tìm kiếm Sự thật và Hòa giải Dân tộc ở Nam Phi là một thí dụ. Ủy Ban này chủ yếu do bên thắng cuộc thiết lập.
Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng: Là thế hệ hậu chiến, tôi phản đối và bất bình với cách thức bên thắng cuộc đã hành xử với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và với người dân. Giá như hai bên thương yêu, bao dung và tôn trọng nhau trên tinh thần thượng võ và nhân bản như những gì các lãnh đạo nước Mỹ đã làm được sau nội chiến (1861-1865) thì đã không có những vết thương chiến tranh hằn sâu đến như vậy trong lòng cả dân tộc.
Tuy nhiên nước Mỹ không phải trải qua chiến tranh ý thức hệ và chiến tranh ủy nhiệm tàn khốc như Việt Nam, việc hòa giải cũng dễ dàng tự nhiên hơn.
Máu không thể rửa bằng máu, hận thù không thể xóa tan thù hận, chỉ có những dòng nước nhân bản trong trẻo ngọt lành theo thời gian mới có thể hóa giải được hận thù.
Nuôi hận thù chẳng khác gì nuôi rắn độc trong tim và trong óc, tôi hy vọng thế hệ chúng tôi và thế hệ sau này sẽ tỉnh táo, có sự lựa chọn phù hợp để có cuộc sống hạnh phúc.
Công lý, công bằng của người Việt được thực thi theo đúng luật nhân quả, nó vẫn đang diễn ra theo đúng dòng chảy tự nhiên và sẽ làm tốt vai trò của nó.
BBC nêu ra câu hỏi: Các ông nghĩ thế nào về xu thế đòi hỏi có đa đảng ở Việt Nam. Trong những năm tới, liệu đòi hỏi này có mạnh mẽ hơn?
Luật sư Lê Công Định: Sự thay đổi đó là nhu cầu từ rất lâu rồi, không chờ đến lúc này.
Thể chế độc tài toàn trị chưa bao giờ giúp một quốc gia phát triển.
Muốn dân tộc Việt Nam phục hưng và có tương lai tươi sáng dứt khoát phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và thể chế nhà nước/pháp luật cộng sản.
Xây dựng một chế độ dân chủ hậu thuẫn bởi nền tảng đa đảng chính trị đối lập và đa nguyên tư tưởng là điều kiện cần để Việt Nam văn minh và cường thịnh. Điều đó cũng miễn bàn.
Giáo sư Vladimir Kolotov: Đây là câu hỏi có tính ý thức hệ.
Nếu nhìn vào tham số kinh tế, thì phải công nhận là từ đầu thập niên 90 đến nay, mức tăng trưởng GDP ở Việt Nam bình quân là 7% một năm.
Điều đó chứng minh là chính phủ Việt Nam có tính hiệu quả quản lý cao.
Một bằng chứng hiển nhiên nữa là hiện nay Việt Nam đang chiến thắng đại dịch Covid-19 nhờ có chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ, cùng tinh thần đoàn kết, ủng hộ của người dân.
Vị thế của Việt Nam đang có uy tín cao trên chính trường thế giới: Việt Nam là Chủ tịch Asean, đồng thời là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc với số phiếu tán thành kỷ lục.” Giáo sư Vladimir Kolotov nói.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng bình luận: “Tư do, dân chủ là những giá trị phổ quát mà người dân bất cứ ở đâu cũng muốn có.
Phương châm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đây và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Viêt Nam ngày nay vẫn là “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.” Người dân Việt Nam muốn có tự do. Những người bất đồng chính kiến đòi dân chủ.
Nhà cầm quyền Việt Nam cũng nói dân chủ là hướng phải đi tới.
Chừng nào mà mục tiêu chung này chưa được thực hiện thì sức ép vẫn còn cho đến khi nó được thực hiện.”
Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng: Đây là một câu hỏi rất nhạy cảm trong bối cảnh chính trị xã hội hiện thời của Việt Nam, tuy nhiên tôi vẫn sẽ trả lời một cách thẳng thắn.
Đa nguyên tư tưởng là một thực tế khách quan của con người, không một thế lực nào, không một thể chế nào cấm đoán nổi dòng chảy tự nhiên của đa nguyên tư tưởng và sự khác biệt vốn có của các cá nhân con người và các cộng đồng dân tộc.
Tuy nhiên, thể chế và chế độ chính trị cũng chỉ là một phần trong kết cấu văn hóa của mỗi dân tộc, ngang bằng với các nhân tố hình thái ý thức tinh thần, hình thái vật chất, với văn hóa hành vi của một dân tộc.
Đã gọi là văn hóa thì sẽ không có đúng/sai, cao/thấp, tốt/xấu, đơn giản chỉ là sự sàng lọc, gạn đục khơi trong và sự lựa chọn tự nhiên của số đông, của những thế lực tiên phong dẫn dắt các tiến bộ xã hội trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Đã gọi là văn hóa và lựa chọn thể chế thì cũng sẽ luôn có mặt mạnh mặt yếu như hai mặt của một tờ giấy hay nhiều mặt của một khối đa diện, đòi hỏi cả dân tộc phải sáng suốt.
“Thực tế phân hóa tư tưởng, phân hóa xã hội trong lòng các thể chế đa nguyên đa đảng như Mỹ hay Châu Âu khiến tôi có những băn khoăn nhất định.” Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng phân tích.
Ngoài ưu thế rõ ràng về sự thay đổi và sáng tạo, tạo ra nhiều của cải vật chất, mô hình các đảng đối lập cạnh tranh để thực hiện mong muốn nguyện vọng của số đông người dân như vậy đã thực sự là mô hình lý tưởng nhất hay chưa, hay sẽ tạo nên nguy cơ của xu thế “mị dân“, “nhân văn giả tạo”, làm suy yếu khả năng bảo vệ sức khỏe tính mạng người dân, không tốt cho sự ổn định phát triển của xã hội như thực tế đang bộc lộ và diễn ra gần đây?
Tôi xin nhắc lại, độc lập tự chủ, hòa hiếu và ổn định vẫn luôn là các giá trị cốt lõi của Việt Nam, hy sinh giá trị ổn định để xây dựng mô hình đa nguyên đa đảng như phương Tây có phù hợp không, có đáng không, có hiện thực không, có được cả dân tộc cùng lựa chọn hay không là một câu hỏi hoàn toàn không dễ để trả lời.Tôi tin không nhiều người Việt muốn hy sinh sự ổn định, muốn có chiến tranh và chịu chấp nhận cái giá phải trả cho chiến tranh. Không có ổn định, hòa bình cũng không thể phát triển được, đấu đá nhau thì nước mất, nước mất thì nhà tan.
Theo tôi những thay đổi về thể chế tại Việt Nam không đứng đơn độc và phần nào phụ thuộc vào mô hình thể chế của cả hệ thống lớn, khi Liên Xô tan rã thì mô hình thể chế của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi về căn bản.
Mô hình thể chế của Việt Nam hiện tại chỉ có khả năng thay đổi lớn khi mô hình thể chế quản lý xã hội của Trung Quốc có những thay đổi cơ bản.
Trước mắt, khi những thay đổi long trời lở đất như vậy tạm thời chưa xảy ra thì Việt Nam nên lành mạnh bộ máy, nhất là thận trọng trong lựa chọn thế hệ lãnh đạo mới, tìm những con người thực sự mang trong mình tinh hoa của dân tộc, trung thành với các giá trị cốt lõi, thực sự tử tế và nhất là phải “của dân, do dân, vì dân“.
Có những cá nhân tài giỏi, tử tế sẽ có một chính quyền tài giỏi, tử tế. Có chính quyền thực sự tử tế “của dân, do dân, vì dân” sẽ có tất cả, thực tế diễn ra tại nước Mỹ mấy trăm năm qua đã chứng tỏ điều này, họ chính là một chế độ chính trị như vậy, chỉ khác là họ chọn giá trị “tự do” còn người Việt Nam chúng ta thường chọn giá trị “hòa hiếu“, hòa cả làng làm giá trị cốt lõi nhất , đã là giá trị cốt lõi thì không dễ gì thay đổi.
Phải chăng, quan điểm lưu giữ cái cũ sẽ bị thế hệ trẻ phá vỡ trong tương lai, để đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, tham nhũng, ăn cắp của công tràn lan trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam như hiện nay.
Thu Thủy từ TpHCM – Thoibao.de (tổng hợp)