Ngày 21/7, blog Ngô Nhân Dụng trên VOA Tiếng Việt có bài: “Lý thuyết gia Mác xít cuối cùng”.
Tác giả nhận định, ông Nguyễn Phú Trọng qua đời sau gần 30 năm ngồi trong Bộ Chính trị, đã được bầu làm Tổng Bí thư 3 lần, vượt qua giới hạn 2 nhiệm kỳ. Giống như Tập Cận Bình ở Trung Quốc, ông Trọng đã loại trừ được các đối thủ chính trị, bằng phong trào “đốt lò” chống tham nhũng, để thành người lãnh đạo độc nhất và tối cao.
Tác giả dẫn lời Tiến sĩ Nguyễn Quang A ở Hà Nội – “di sản của ông ấy là một người tham quyền cố vị, kiên định với chủ nghĩa Marx- Lenin”.
Tác giả Ngô Nhân Dụng cho biết, ông Trọng đã leo dần lên ghế Tổng Bí thư và kiên trì ngồi đó hơn một con giáp, chính vì được tiếng là người “kiên định với Chủ nghĩa Marx- Lenin”. Ông Trọng cũng được tiếng là người không ham làm giàu, kể cả thời gian làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, từ năm 2000 đến 2006.
Tác giả cho rằng, trong thực tế, chính các đảng viên Cộng sản ở Việt Nam không còn ai tin và hiểu các lý thuyết mơ hồ của Karl Marx. Muốn biện minh cho chế độ độc tài toàn trị, để công an “làm việc”, cần một lý thuyết gia đứng ra hô khẩu hiệu. Vì lẽ đó, ông thành một trong “Tứ trụ” cầm đầu Đảng từ 2006 đến 2011. Nhiệm vụ quan trọng nhất của ông là hô hào bảo vệ Chủ nghĩa. Ông Nguyễn Phú Trọng đã chuẩn bị cả đời để làm công việc này.
Ông lầm lũi, kiên trì tiến vào vòng trong của guồng máy Đảng. Các lãnh tụ khác vẫn lo thu nhặt bỏ túi, để khi về hưu có thể ngồi cái ghế bằng vàng đặt giữa nhà, hoặc “áo gấm về làng”, khi chết được xây lăng mộ nguy nga.
Tác giả nhận thấy, ông Trọng chỉ đóng vai “Quan Công phò nhị tẩu”, thắp đuốc bảo vệ Chủ nghĩa, chống đối kịch liệt “diễn biến hòa bình”, và các cuộc “cách mạng màu” ở Bắc Phi và Đông Âu, chờ cơ hội leo lên cái ghế cao nhất.
Tuy nhiên, ông Trọng có lúc cũng thú nhận “con đường tiến lên Chủ nghĩa Xã hội rất mù mịt, đến hết thế kỷ 21 này, không biết Việt Nam sẽ tới đó hay chưa”. Cho nên, khi lên chức Tổng Bí thư, ông bay qua Bắc Kinh ngay để diện kiến Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Ông Trọng theo sát Tập Cận Bình từng bước, khoác cái áo Marx – Lenin lên mình, như một lá bùa thiêng.
Tác giả nhận xét, ông Trọng biết không thể nào bảo vệ chế độ bằng các bài diễn văn đầy “chữ nghĩa thánh hiền”, mà không còn ai muốn nghe. Cho nên, theo bài học của Lênin, muốn “xây dựng Đảng” cần phải dùng bạo lực.
Sau 2 nhiệm kỳ, từ 2011 đến 2021, đáng lẽ, Nguyễn Phú Trọng phải xuống ghế. Điều lệ Đảng Cộng sản cũng quy định, các lãnh tụ đến tuổi 65 phải về hưu. Nhảy qua cả 2 chướng ngại đó, ông được tái cử, nhờ đã phát động kế hoạch “Đốt Lò”, từ năm 2013.
Công cuộc đốt lò của Tổng Trọng đã làm 9 uỷ viên Bộ Chính trị của 2 khoá 12 và 13 bị điều tra; 7 trong số 18 thành viên Bộ Chính trị khoá 13 bị đuổi ra ngoài. Trong đó, ông Đinh La Thăng bị bắt, 2 Chủ tịch nước là Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng, 1 Chủ tịch Quốc hội là Vương Đình Huệ, phải từ chức.
Tác giả dẫn lời Tiến sĩ Nguyễn Quang A: “công cuộc đốt lò là hoàn toàn thất bại”. Đây cũng là một sự thật mà ông vua khoác áo Marx – Lenin không tự mình nhìn thấy. Ông Tổng muốn đốt lò để lau rửa cho bộ mặt Đảng sạch sẽ hơn, hy vọng sẽ được dân chúng tin tưởng. Nhưng khi bắt các quan chức từ chức, tống giam một số người, ông đều kết tội họ, trước hết, là không làm đúng nhiệm vụ của đảng viên. Ông nhân danh “luật Đảng” chứ không dùng “luật nước”.
Tuy nhiên, tác giả đúc kết, chiến dịch đốt lò của ông Nguyễn Phú Trọng đã hoàn toàn thất bại, có chăng, chỉ chặt các cành cây trên ngọn, mà không đụng tới gốc rễ sinh đẻ ra nạn tham nhũng.
Tất cả các chế độ độc tài đều tạo ra và nuôi dưỡng tham nhũng, hối lộ. Muốn trừ tham nhũng, phải đề cao luật pháp, tôn trọng và bảo vệ nền tư pháp độc lập. Đó là điều mà lý thuyết Marx – Lenin không dạy ông Trọng. Con người “kiên định với chủ nghĩa Marx – Lenin”, mang theo cả Chủ nghĩa trống rỗng đó xuống lòng đất.
Ý Nhi – thoibao.de